Sống Niềm Tin 7 Một Lòng Cậy Trông và Phó Thác.

18/08/20198:42 SA(Xem: 8987)
Sống Niềm Tin 7 Một Lòng Cậy Trông và Phó Thác.

Sống Niềm Tin 7


Một Lòng Cậy Trông và Phó Thác.


Vũ Duy Thái



Chấp nhận những khốn nạn bất công xẩy tới cho mình như là số phần Thiên Chúa an bài cho mình, mà không chút hận thù, như trường hợp ông Vũ Duy Thái dưới đây, phải chăng là dấu chỉ vong thân và tiêu cực của người theo Chúa? Hay đó là dấu chỉ của một tâm hồn đã đạt tới chiều sâu của Tin Mừng? 

Bài sau đây của tác giả nạn nhân đọc tại nhà thờ trại tỵ nạn Songkhla Thái Lan ngày 14-4-1980, vào buổi lễ giỗ 100 ngày vợ và 4 đứa con của ông bị chết vì hải tặc.



Nếu trên trái đất này có nhiều chuyện thương đau thì hoàn cảnh của gia đình tôi nên kể như một hoàn cảnh đau thương. Tôi đã trải qua những đau đớn thảm sầu đến cùng cực, nhưng sở dĩ tôi còn đứng vững được đến ngày nay là vì tôi quan niệm rằng mọi sự ở trên đời này đều đã do bàn tay của Chúa sắp đặt.

Tôi tên là Vũ Duy Thái, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1936 tại Hoa Lộc, Tuyên Sơn, Ninh Bình (Bắc Việt). Thuở nhỏ rất nghèo phải đi chăn trâu cắt cỏ từ lúc 5 tuổi. Mồ côi cha năm 10 tuổi, mẹ đau ốm thường xuyên. Nhưng lần hồi tới năm 23 tuổi thì đời sống tương đối dễ chịu hơn với nghề thợ may. Tôi di cư vào Nam năm 1954 và lập gia đình vào ngày 6-4-1958 ở xứ An Lạc, Gia Định. Nhà tôi tên Đinh Thị Bang, sinh năm 1940 tại Phú Nhai, Nam Định (Bắc Việt). Nhà tôi cũng thuộc thành phần di cư 1954.

Lúc mới lấy nhau, chúng tôi rất nghèo. Tiền đám cưới có sáu ngàn đồng chúng tôi cũng lo không nổi, phải đem bán cái máy may và vay mượn bạn bè thêm bốn ngàn nữa mới tạm đủ. Như thế, nhà tôi đã khởi sự chia sẻ với tôi mọi nỗi gian nan vất vả của đời sống ngay từ lúc mới bước chân về nhà chồng. Những năm đầu sống thiếu thốn cực nhọc trôi qua trong sự đảm đang tần tảo của nhà tôi. Là một phụ nữ yếu đuối về thể chất nhưng rất mạnh mẽ về tinh thần, nhà tôi đã phấn đấu hy sinh rất nhiều cá nhân mình để lo cho chồng con. Gần như cả cuộc đời nhà tôi không được hưởng chút gì sung sướng. Nhà tôi không ham thích một thứ giải trí nào ngoài niềm vui lo toan công việc tề gia nội trợ, chăm lo bữa ăn giấc ngủ cho chồng con. Lúc nào nhà tôi cũng cố gắng sắp xếp cho chồng con được ăn ngon, ngủ yên. Dưới mắt tôi, nhà tôi là một mẫu người Phụ Nữ Việt Nam đảm đang trung hậu, luôn luôn là niềm an ủi khích lệ và là chỗ nương tựa vững chắc cho toàn thể gia đình.


Chúng tôi sinh hạ được bảy con, tuần tự gồm có:


1. Giuse Vũ Duy Thành, sinh năm 1959

2. Vinxente Vũ Duy Trung (1961)

3. Phero Vũ Duy Tuấn (1963)

4. Maria Vũ Thị Thanh Thủy (1966)

5. Maria Vũ Thị Thùy Trang (1968)

6. Martin Vũ Duy Tài (1971)

7. Phero Vũ Duy Trí (1975)


Gia đình tôi được kể như hoàn toàn hạnh phúc nếu như không có sự sụp đổ miền Nam, đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Là một gia đình Thiên Chúa Giáo ngoan đạo, các con tôi được hưởng một nền giáo dục nằm trong tình thương của Thiên Chúa, do đó không bao giờ chúng tôi có thể sống nổi dưới ách độc tài, đàn áp của Cộng Sản cả. Vì thế chúng tôi đành quyết định bỏ nước ra đi.

Chuyến vượt biên thứ nhất vợ chồng tôi cho 3 cháu trai đầu đi trước. Tàu khởi hành từ bến Bạch Đằng Saigon ngày 01-10-1978 chở theo 130 người nhưng chỉ được 4 ngày thì chết máy. Ghe lạc vào một đảo san hô đầy đá ngầm thuộc đảo Bành Hồ Đài Loan. Sống 50 ngày liền, thực phẩm không có, số người bị chết đói cứ tăng dần và những người sống sót đành xẻ thịt người chết để ăn cho đỡ đói. Hai cháu lớn của tôi Vũ Duy Thành và Vũ Duy Trung đã bị rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát này. Các cháu đã chết và đã bị người đồng ghe ăn thịt.

Mãi tới sáng ngày thứ 50 mới có tàu đánh cá Đài Loan tình cờ ghé qua trông thấy tới cứu thì cả ghe 130 người chỉ còn sống sót có 60 người nhưng trên đường từ đảo San Hô vào Đài Loan thêm một số người chết nữa vì quá kiệt sức. Rút cục khi đặt chân lên đất Đài Loan chỉ còn 34 người sống sót, trong đó có con trai thứ ba của tôi là Vũ Duy Tuấn và một đứa con đỡ đầu của tôi là Trần Vĩnh Thúy. Hiện nay cháu Tuấn đang sống ở Đài Bắc, còn cháu Thúy nhờ có thân nhân ruột thịt bảo lãnh nên đã đi định cư tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Trước thảm kịch có hai anh ruột bị chết thảm cháu Tuấn vì sợ bố mẹ buồn nên dấu biệt tin tức. Mãi tới ngày 20-12-1979 một người bạn tôi tên Đỗ Minh Ngữ ở Mỹ viết thư về cho gia đình tôi mới biết rõ tin tức về chuyến đi kinh hoàng đó. 

Vào đúng thời điểm này gia đình chúng tôi lại đang chuẩn bị chuyến vượt biển lần thứ hai. Chúng tôi làm lễ cầu nguyện 3 ngày liền cho hai cháu ở nhà thờ An Lạc, Chí Hòa, rồi mặc dầu vô cùng đau đớn chúng tôi vẫn tiếp tục xúc tiến cuộc hành trình vượt biển với cả gia đình.

Chúng tôi rời Saigon vào ngày 28-12-1979 lúc 4 giờ sáng để xuống Rạch Giá. Khoảng 9 giờ sáng ngày 29-12-1979 thì chúng tôi ra khỏi hải phận. Chiếc ghe mang số VNKG 0980, dài 13 mét ngang 2.50 mét chở 120 người. Ghe chạy tới 7 giờ chiều ngày 30-12 thì gặp hải tặc Thái Lan (trên tàu cướp có treo cờ Thái Lan) xáp lại cướp lần đầu. Cướp xong chúng bỏ đi.


Qua 8 giờ sáng ngày 31-12 lại gặp một tàu cướp khác. Lần này cướp xong chúng phá máy tàu. Một chuỗi 8,9 tiếng nổ phát ra ở hầm máy làm cho chiếc ghe lập tức chao đi và chìm lĩm ngay 5 phút sau đó. Tất cả mọi người trên ghe đều la khóc kinh hoàng. Vào giây phút cực kỳ khiếp đảm này vợ chồng tôi không nói được với nhau câu nào. Tôi chỉ kịp nhìn thấy nhà tôi với vẻ mặt hết sức hoảng sợ, thảng thốt. Nhà tôi cúi xuống hôn hai con út là cháu Tài và cháu Trí. Tôi cũng có nghe tiếng cháu Thủy la lên: “Cha ơi! Chú Tuynh kìa....” và tiếng Trang kêu lên: Cha ơi! Chết rồi...” Cuối cùng chiếc ghe chìm lỉm.

Lúc đó nhà tôi vẫn ở bên cạnh tôi, nhưng nhà tôi không hề níu kéo lấy tôi. Đây là cử chỉ hy sinh cuối cùng của nhà tôi dành cho chồng con. Nhà tôi không muốn tôi bận bịu vướng mắc giữa sóng biển để tôi có cơ hội cứu các con. Khốn thay một cơn sóng độc ác đã ùa tới nhận chìm tất cả những người thân yêu của tôi. Tôi không còn thấy ai nữa. Chỉ có sóng nước ngập đầu. Ngay lúc đó tôi được một người cháu tên Phương níu tôi lại và cho tôi bíu vào một cái can nước. Tôi ôm cái can hoàn toàn theo bản năng và lúc tôi mở được mắt ra thì tôi thấy nhà tôi nổi vật vờ ngay trước mắt. Rồi sau đó tôi ngất đi không biết gì nữa.

Khi tỉnh dạy tôi thấy mình nằm trên tàu của hải tặc. Bên cạnh tôi là hai em Hùng và Châu đang làm hô hấp nhân tạo cho nhà tôi, chắc là vừa được các em vớt lên. Tôi cũng cố gượng dạy để ra phụ giúp, nhưng bọn hải tặc ra hiệu bắt phải hất nhà tôi xuống biển. Thật không còn gì tan nát hơn lòng tôi lúc đó. Tôi nhào lại, ôm nhà tôi vào lòng, đau dớn nhìn hai mắt nhà tôi còn mở nhưng thân hình đã bất động. Bọt ở mép sùi ra. Tôi đã dùng tay vuốt hai mắt nhà tôi khép lại, rồi tôi khiêng ở đầu, hai em Hùng và Châu khiêng ở chân, hạ nhà tôi xuống biển.

Đó là lần cuối cùng tôi ở cạnh nhà tôi. Những giây phút đau đớn nhất của một đời người. Một con sóng lớn lại ập tới. Biển xanh bao la đầy sóng dữ đã vĩnh viễn lôi cuốn đi người vợ thân yêu nhất của đời tôi. Không bao giờ tôi còn gặp lại. Không có một nấm mồ để tôi lui tới viếng thăm. Một thoáng lay động trên biển cả rồi vĩnh viễn chia lìa. Vĩnh viễn không còn thấy nhau. Ôi còn đau đớn nào bằng đau đớn tôi phải chịu đựng. Tất cả vợ con thân yêu của tôi đã mất đi trong khoảnh khắc. Khi chết, nhà tôi bận một chiếc quần đen, một cái áo montagu đen. Nét mặt nhà tôi không tỏ vẻ đau đớn gì. Chỉ có nét thảng thốt thoáng qua trên khuôn mặt bình thản. Đó là hình ảnh cuối cùng của nhà tôi mà tôi ghi nhớ được trước giây phút ngàn năm vĩnh biệt.

Kiểm điểm lại, chẳng những nhà tôi chết trên biển mà tất cả các đứa con của tôi cũng đều chết đuối hết. Cháu Thanh Thủy, cháu Thùy Trang, cháu Duy Tài, cháu Duy Trí. Những người thân yêu của tôi đã đi vào lòng biển sâu. Tôi tưởng rằng nếu trên đời này có những thảm họa đớn đau nào thì thảm họa giáng xuống gia đình tôi phải kể là một trong những thảm họa lớn nhất, khủng khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng của một con người. Cùng số phận với vợ con tôi còn có 65 người nữa đi cùng ghe đã bị chết chìm. Cả thảy 70 sinh mạng đã chết dưới bàn tay bạo tàn của hải tặc. Số còn lại được đưa vào đảo Kra, một hòn đảo nằm chơ vơ giữa biển cả trong vịnh Thái Lan. Đảo này bây giờ trở thành địa ngục của dân Việt Nam tỵ nạn bằng thuyền. Bởi vì bất cứ ai bị đưa vào đây đều trở thành nạn nhân của hải tặc bạo hành. Đàn ông thì bị tra tấn để khảo của và bắt chỗ trốn của phụ nữ, còn phụ nữ thì trốn trong hốc núi rừng sâu hay dưới vách đá ngầm ngoài biển, nếu họ bị phát giác thì sẽ bị hải tặc hãm hiếp tập thể, liên tục cả ngày lẫn đêm. Trên đảo có nhiều dấu tích thảm thương của đồng bào đi trước để lại như những hàng chữ viết trên vách đá, những mớ tóc đàn bà vương vãi khắp mọi nơi (chắc là hớt tóc để giả trai) và cả những xác thuyền, những ngôi mộ của những người bỏ xác tại đó.

Chúng tôi được đưa lên đảo vào lúc 6 giờ chiều ngày 31-12-1979. Lòng đau đớn và xác thân rã rời, bệnh hoạn. Các em tôi đã phải đi kiếm cỏ khô để trải thành nệm cho tôi nằm, lo kiếm thức ăn cho tôi ăn, và vì tôi quá ốm đau nên chú Chiến đã chịu khó đi mày mò ở khắp mọi nơi, bòn nhặt những vật dụng vương vãi của đồng bào đi trước bỏ lại để tìm kiếm những viên thuốc cho tôi uống, bất cứ là thuốc gì, miễn nó là thuốc. Có những viên thuốc đã rữa nát vì nắng mưa, có những viên mòn vẹt chỉ còn lại một phần tư nhưng tôi vẫn cố uống vì sức khỏe của tôi vô cùng suy sụp.

Sáu ngày trên đảo là sáu ngày buồn thảm kinh hoàng. Đói lạnh và những nỗi nhớ thương đau đớn đến tận cùng cực của tâm hồn. Trong khi ấy các phụ nữ đi cùng ghe vẫn phải lẫn trốn như những con vật vô phương tự vệ trước những cuộc lùng sục tàn bạo của hải tặc.

Đến ngày 06-01-1980 chúng tôi được Cao Ủy Tỵ Nan Liên Hiệp Quốc đưa vào quận Pakphanang thuộc tỉnh Nakorn Sri Thaniaraj. Ở đó 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái thì tôi được đưa về trại Songkhla ngày 23-01-1980.

Tôi thấy cần phải ghi thêm ở đây lòng biết ơn của tôi đối với các em Hùng, Châu đã tận tình săn sóc tôi, an ủi tôi trong cuộc hành trình đầy gian khổ mà chúng tôi vừa trải qua. Sự ân cần giúp đỡ của hai em tôi sẽ ghi nhớ mãi không bao giờ quên.

Hôm nay là ngày 14-4-1980, ngày thứ 100 nhà tôi và các con chết trên biển trong vịnh Thái Lan trên đường vượt thoát Cộng Sản đi tìm tự do. Tôi đang ở trại tỵ nạn Songkhla. Cách đây 50 ngày cha Tuyên Úy Devlin đã dâng thánh lễ cầu nguyện cho nhà tôi và các con tôi tại nhà thờ trong trại. Hôm nay Cha cũng dâng lễ cầu nguyện nhân dịp 100 ngày. Tôi vô cùng đau đớn, vô cùng chua xót, nhớ lại những người thân yêu nhất của đời tôi. Vợ và sáu con của tôi. Những người đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Thời gian, dù là một liều thuốc nhiệm màu giúp cho tâm hồn người ta bớt thương đau, nhưng không bao giờ tôi quên được nhà tôi, người phụ nữ đảm đang hiền thục, suốt một đời tận tụy bên chồng bên con, không hề được hưởng một ngày nhàn hạ.

Lạy Chúa, xin Chúa xót thương cho những linh hồn đớn đau đã chết đau đớn trong thảm họa chung của cả dân tộc Việt Nam chúng con.

Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả về nơi an nghỉ bình an, hạnh phúc, đời đời nơi nước Chúa.

Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn gió bão khủng khiếp nhất của đời người, để cho con còn đủ minh mẫn, đủ sức khỏe để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con hiện đang còn sống tại Đài Loan.

Con đã chịu đau đớn tang thương quá nhiều. Con cầu nguyện ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những người vượt biển ra đi đều được bình an tới bờ biển an toàn.

Con cầu xin, rồi một ngày kia, con cũng sẽ gặp lại đầy đủ mọi người thân yêu ở nơi nước Chúa trên Thiên Đàng.


http://danlambaovn.blogspot.com/2016/05/i-tim-su-that-ve-con-nguoi-muon-mat-ho_19.html#more

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Ml 3,19-20a: (19) Vì này Ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng - Đức Chúa các đạo binh phán - không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. • 2 Tx 3,7-12: (8) Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em.
10/11/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • 2Mcb 7,1-2.9-14: (9) Chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời. • 2Tx 2,16-3,5: (16) Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta, đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp. • TIN MỪNG: Lc 20,27-38
03/11/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Kn 11,22-12,2: (23) Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải. (24) Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. • 2Tx 1,11-2,2: (11) Xin Thiên Chúa giúp chúng ta làm cho anh em mình xứng đáng với ơn gọi; xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. • TIN MỪNG: Lc 19,1-10
13/10/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • 2V 5,14-17: (Sau khi được ngôn sứ Êlisa chữa khỏi bệnh cùi), (17) ông Naaman nói: «Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa». • 2Tm 2,8-13: (10) Tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời. • TIN MỪNG: Lc 17,11-19
30/09/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Am 6,1a.4-7: (1) Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari (…), (6) nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ ! (7) Vì thế, chúng sẽ bị lưu đày, và dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. • 1Tm 6,11-16: (11) Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa. • TIN MỪNG: Lc 16,19-31
22/09/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Am 8, 4-7: (Đức Chúa phán:) (4) Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. (7) Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng. • 1Tm 2, 1-8: (3) (…) Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, (4) Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. • TIN MỪNG: Lc 16, 1-13
14/09/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Xh 32,7-11.13-14: (11) Ông Môsê thưa với Chúa: «Lạy Chúa, sao Ngài lại nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã đưa ra khỏi đất Aicập». (14) Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe. • 1Tm 1,12-17: (15) Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. • TIN MỪNG: Lc 15,1-10
14/09/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Kn 9,13-18: (15) Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề. • Plm 9b-10.12-17: (9b) Tôi, Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu. • TIN MỪNG: Lc 14,25-33
01/09/2019
ĐỌC LỜI CHÚA • Hc 3,19-21.30-31: (18) Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. (20) Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. • Dt 12,18-19.22-24a: (23) Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. (24) Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu. • TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14
24/08/2019
TIN MỪNG: Lc 13,22-30 Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại
FOLLOW US
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN MỚI
Thông tin của bạn được giữ kín tuyệt đối và có thể hủy đăng ký bất cứ lúc nào. Nhập địa chỉ email của bạn
THÔNG TIN LIÊN LẠC