Sống Niềm Tin 7 Một Lòng Cậy Trông và Phó Thác.

18/08/20198:42 SA(Xem: 8949)
Sống Niềm Tin 7 Một Lòng Cậy Trông và Phó Thác.

Sống Niềm Tin 7


Một Lòng Cậy Trông và Phó Thác.


Vũ Duy Thái



Chấp nhận những khốn nạn bất công xẩy tới cho mình như là số phần Thiên Chúa an bài cho mình, mà không chút hận thù, như trường hợp ông Vũ Duy Thái dưới đây, phải chăng là dấu chỉ vong thân và tiêu cực của người theo Chúa? Hay đó là dấu chỉ của một tâm hồn đã đạt tới chiều sâu của Tin Mừng? 

Bài sau đây của tác giả nạn nhân đọc tại nhà thờ trại tỵ nạn Songkhla Thái Lan ngày 14-4-1980, vào buổi lễ giỗ 100 ngày vợ và 4 đứa con của ông bị chết vì hải tặc.



Nếu trên trái đất này có nhiều chuyện thương đau thì hoàn cảnh của gia đình tôi nên kể như một hoàn cảnh đau thương. Tôi đã trải qua những đau đớn thảm sầu đến cùng cực, nhưng sở dĩ tôi còn đứng vững được đến ngày nay là vì tôi quan niệm rằng mọi sự ở trên đời này đều đã do bàn tay của Chúa sắp đặt.

Tôi tên là Vũ Duy Thái, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1936 tại Hoa Lộc, Tuyên Sơn, Ninh Bình (Bắc Việt). Thuở nhỏ rất nghèo phải đi chăn trâu cắt cỏ từ lúc 5 tuổi. Mồ côi cha năm 10 tuổi, mẹ đau ốm thường xuyên. Nhưng lần hồi tới năm 23 tuổi thì đời sống tương đối dễ chịu hơn với nghề thợ may. Tôi di cư vào Nam năm 1954 và lập gia đình vào ngày 6-4-1958 ở xứ An Lạc, Gia Định. Nhà tôi tên Đinh Thị Bang, sinh năm 1940 tại Phú Nhai, Nam Định (Bắc Việt). Nhà tôi cũng thuộc thành phần di cư 1954.

Lúc mới lấy nhau, chúng tôi rất nghèo. Tiền đám cưới có sáu ngàn đồng chúng tôi cũng lo không nổi, phải đem bán cái máy may và vay mượn bạn bè thêm bốn ngàn nữa mới tạm đủ. Như thế, nhà tôi đã khởi sự chia sẻ với tôi mọi nỗi gian nan vất vả của đời sống ngay từ lúc mới bước chân về nhà chồng. Những năm đầu sống thiếu thốn cực nhọc trôi qua trong sự đảm đang tần tảo của nhà tôi. Là một phụ nữ yếu đuối về thể chất nhưng rất mạnh mẽ về tinh thần, nhà tôi đã phấn đấu hy sinh rất nhiều cá nhân mình để lo cho chồng con. Gần như cả cuộc đời nhà tôi không được hưởng chút gì sung sướng. Nhà tôi không ham thích một thứ giải trí nào ngoài niềm vui lo toan công việc tề gia nội trợ, chăm lo bữa ăn giấc ngủ cho chồng con. Lúc nào nhà tôi cũng cố gắng sắp xếp cho chồng con được ăn ngon, ngủ yên. Dưới mắt tôi, nhà tôi là một mẫu người Phụ Nữ Việt Nam đảm đang trung hậu, luôn luôn là niềm an ủi khích lệ và là chỗ nương tựa vững chắc cho toàn thể gia đình.


Chúng tôi sinh hạ được bảy con, tuần tự gồm có:


1. Giuse Vũ Duy Thành, sinh năm 1959

2. Vinxente Vũ Duy Trung (1961)

3. Phero Vũ Duy Tuấn (1963)

4. Maria Vũ Thị Thanh Thủy (1966)

5. Maria Vũ Thị Thùy Trang (1968)

6. Martin Vũ Duy Tài (1971)

7. Phero Vũ Duy Trí (1975)


Gia đình tôi được kể như hoàn toàn hạnh phúc nếu như không có sự sụp đổ miền Nam, đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Là một gia đình Thiên Chúa Giáo ngoan đạo, các con tôi được hưởng một nền giáo dục nằm trong tình thương của Thiên Chúa, do đó không bao giờ chúng tôi có thể sống nổi dưới ách độc tài, đàn áp của Cộng Sản cả. Vì thế chúng tôi đành quyết định bỏ nước ra đi.

Chuyến vượt biên thứ nhất vợ chồng tôi cho 3 cháu trai đầu đi trước. Tàu khởi hành từ bến Bạch Đằng Saigon ngày 01-10-1978 chở theo 130 người nhưng chỉ được 4 ngày thì chết máy. Ghe lạc vào một đảo san hô đầy đá ngầm thuộc đảo Bành Hồ Đài Loan. Sống 50 ngày liền, thực phẩm không có, số người bị chết đói cứ tăng dần và những người sống sót đành xẻ thịt người chết để ăn cho đỡ đói. Hai cháu lớn của tôi Vũ Duy Thành và Vũ Duy Trung đã bị rơi vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát này. Các cháu đã chết và đã bị người đồng ghe ăn thịt.

Mãi tới sáng ngày thứ 50 mới có tàu đánh cá Đài Loan tình cờ ghé qua trông thấy tới cứu thì cả ghe 130 người chỉ còn sống sót có 60 người nhưng trên đường từ đảo San Hô vào Đài Loan thêm một số người chết nữa vì quá kiệt sức. Rút cục khi đặt chân lên đất Đài Loan chỉ còn 34 người sống sót, trong đó có con trai thứ ba của tôi là Vũ Duy Tuấn và một đứa con đỡ đầu của tôi là Trần Vĩnh Thúy. Hiện nay cháu Tuấn đang sống ở Đài Bắc, còn cháu Thúy nhờ có thân nhân ruột thịt bảo lãnh nên đã đi định cư tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Trước thảm kịch có hai anh ruột bị chết thảm cháu Tuấn vì sợ bố mẹ buồn nên dấu biệt tin tức. Mãi tới ngày 20-12-1979 một người bạn tôi tên Đỗ Minh Ngữ ở Mỹ viết thư về cho gia đình tôi mới biết rõ tin tức về chuyến đi kinh hoàng đó. 

Vào đúng thời điểm này gia đình chúng tôi lại đang chuẩn bị chuyến vượt biển lần thứ hai. Chúng tôi làm lễ cầu nguyện 3 ngày liền cho hai cháu ở nhà thờ An Lạc, Chí Hòa, rồi mặc dầu vô cùng đau đớn chúng tôi vẫn tiếp tục xúc tiến cuộc hành trình vượt biển với cả gia đình.

Chúng tôi rời Saigon vào ngày 28-12-1979 lúc 4 giờ sáng để xuống Rạch Giá. Khoảng 9 giờ sáng ngày 29-12-1979 thì chúng tôi ra khỏi hải phận. Chiếc ghe mang số VNKG 0980, dài 13 mét ngang 2.50 mét chở 120 người. Ghe chạy tới 7 giờ chiều ngày 30-12 thì gặp hải tặc Thái Lan (trên tàu cướp có treo cờ Thái Lan) xáp lại cướp lần đầu. Cướp xong chúng bỏ đi.


Qua 8 giờ sáng ngày 31-12 lại gặp một tàu cướp khác. Lần này cướp xong chúng phá máy tàu. Một chuỗi 8,9 tiếng nổ phát ra ở hầm máy làm cho chiếc ghe lập tức chao đi và chìm lĩm ngay 5 phút sau đó. Tất cả mọi người trên ghe đều la khóc kinh hoàng. Vào giây phút cực kỳ khiếp đảm này vợ chồng tôi không nói được với nhau câu nào. Tôi chỉ kịp nhìn thấy nhà tôi với vẻ mặt hết sức hoảng sợ, thảng thốt. Nhà tôi cúi xuống hôn hai con út là cháu Tài và cháu Trí. Tôi cũng có nghe tiếng cháu Thủy la lên: “Cha ơi! Chú Tuynh kìa....” và tiếng Trang kêu lên: Cha ơi! Chết rồi...” Cuối cùng chiếc ghe chìm lỉm.

Lúc đó nhà tôi vẫn ở bên cạnh tôi, nhưng nhà tôi không hề níu kéo lấy tôi. Đây là cử chỉ hy sinh cuối cùng của nhà tôi dành cho chồng con. Nhà tôi không muốn tôi bận bịu vướng mắc giữa sóng biển để tôi có cơ hội cứu các con. Khốn thay một cơn sóng độc ác đã ùa tới nhận chìm tất cả những người thân yêu của tôi. Tôi không còn thấy ai nữa. Chỉ có sóng nước ngập đầu. Ngay lúc đó tôi được một người cháu tên Phương níu tôi lại và cho tôi bíu vào một cái can nước. Tôi ôm cái can hoàn toàn theo bản năng và lúc tôi mở được mắt ra thì tôi thấy nhà tôi nổi vật vờ ngay trước mắt. Rồi sau đó tôi ngất đi không biết gì nữa.

Khi tỉnh dạy tôi thấy mình nằm trên tàu của hải tặc. Bên cạnh tôi là hai em Hùng và Châu đang làm hô hấp nhân tạo cho nhà tôi, chắc là vừa được các em vớt lên. Tôi cũng cố gượng dạy để ra phụ giúp, nhưng bọn hải tặc ra hiệu bắt phải hất nhà tôi xuống biển. Thật không còn gì tan nát hơn lòng tôi lúc đó. Tôi nhào lại, ôm nhà tôi vào lòng, đau dớn nhìn hai mắt nhà tôi còn mở nhưng thân hình đã bất động. Bọt ở mép sùi ra. Tôi đã dùng tay vuốt hai mắt nhà tôi khép lại, rồi tôi khiêng ở đầu, hai em Hùng và Châu khiêng ở chân, hạ nhà tôi xuống biển.

Đó là lần cuối cùng tôi ở cạnh nhà tôi. Những giây phút đau đớn nhất của một đời người. Một con sóng lớn lại ập tới. Biển xanh bao la đầy sóng dữ đã vĩnh viễn lôi cuốn đi người vợ thân yêu nhất của đời tôi. Không bao giờ tôi còn gặp lại. Không có một nấm mồ để tôi lui tới viếng thăm. Một thoáng lay động trên biển cả rồi vĩnh viễn chia lìa. Vĩnh viễn không còn thấy nhau. Ôi còn đau đớn nào bằng đau đớn tôi phải chịu đựng. Tất cả vợ con thân yêu của tôi đã mất đi trong khoảnh khắc. Khi chết, nhà tôi bận một chiếc quần đen, một cái áo montagu đen. Nét mặt nhà tôi không tỏ vẻ đau đớn gì. Chỉ có nét thảng thốt thoáng qua trên khuôn mặt bình thản. Đó là hình ảnh cuối cùng của nhà tôi mà tôi ghi nhớ được trước giây phút ngàn năm vĩnh biệt.

Kiểm điểm lại, chẳng những nhà tôi chết trên biển mà tất cả các đứa con của tôi cũng đều chết đuối hết. Cháu Thanh Thủy, cháu Thùy Trang, cháu Duy Tài, cháu Duy Trí. Những người thân yêu của tôi đã đi vào lòng biển sâu. Tôi tưởng rằng nếu trên đời này có những thảm họa đớn đau nào thì thảm họa giáng xuống gia đình tôi phải kể là một trong những thảm họa lớn nhất, khủng khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng của một con người. Cùng số phận với vợ con tôi còn có 65 người nữa đi cùng ghe đã bị chết chìm. Cả thảy 70 sinh mạng đã chết dưới bàn tay bạo tàn của hải tặc. Số còn lại được đưa vào đảo Kra, một hòn đảo nằm chơ vơ giữa biển cả trong vịnh Thái Lan. Đảo này bây giờ trở thành địa ngục của dân Việt Nam tỵ nạn bằng thuyền. Bởi vì bất cứ ai bị đưa vào đây đều trở thành nạn nhân của hải tặc bạo hành. Đàn ông thì bị tra tấn để khảo của và bắt chỗ trốn của phụ nữ, còn phụ nữ thì trốn trong hốc núi rừng sâu hay dưới vách đá ngầm ngoài biển, nếu họ bị phát giác thì sẽ bị hải tặc hãm hiếp tập thể, liên tục cả ngày lẫn đêm. Trên đảo có nhiều dấu tích thảm thương của đồng bào đi trước để lại như những hàng chữ viết trên vách đá, những mớ tóc đàn bà vương vãi khắp mọi nơi (chắc là hớt tóc để giả trai) và cả những xác thuyền, những ngôi mộ của những người bỏ xác tại đó.

Chúng tôi được đưa lên đảo vào lúc 6 giờ chiều ngày 31-12-1979. Lòng đau đớn và xác thân rã rời, bệnh hoạn. Các em tôi đã phải đi kiếm cỏ khô để trải thành nệm cho tôi nằm, lo kiếm thức ăn cho tôi ăn, và vì tôi quá ốm đau nên chú Chiến đã chịu khó đi mày mò ở khắp mọi nơi, bòn nhặt những vật dụng vương vãi của đồng bào đi trước bỏ lại để tìm kiếm những viên thuốc cho tôi uống, bất cứ là thuốc gì, miễn nó là thuốc. Có những viên thuốc đã rữa nát vì nắng mưa, có những viên mòn vẹt chỉ còn lại một phần tư nhưng tôi vẫn cố uống vì sức khỏe của tôi vô cùng suy sụp.

Sáu ngày trên đảo là sáu ngày buồn thảm kinh hoàng. Đói lạnh và những nỗi nhớ thương đau đớn đến tận cùng cực của tâm hồn. Trong khi ấy các phụ nữ đi cùng ghe vẫn phải lẫn trốn như những con vật vô phương tự vệ trước những cuộc lùng sục tàn bạo của hải tặc.

Đến ngày 06-01-1980 chúng tôi được Cao Ủy Tỵ Nan Liên Hiệp Quốc đưa vào quận Pakphanang thuộc tỉnh Nakorn Sri Thaniaraj. Ở đó 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái thì tôi được đưa về trại Songkhla ngày 23-01-1980.

Tôi thấy cần phải ghi thêm ở đây lòng biết ơn của tôi đối với các em Hùng, Châu đã tận tình săn sóc tôi, an ủi tôi trong cuộc hành trình đầy gian khổ mà chúng tôi vừa trải qua. Sự ân cần giúp đỡ của hai em tôi sẽ ghi nhớ mãi không bao giờ quên.

Hôm nay là ngày 14-4-1980, ngày thứ 100 nhà tôi và các con chết trên biển trong vịnh Thái Lan trên đường vượt thoát Cộng Sản đi tìm tự do. Tôi đang ở trại tỵ nạn Songkhla. Cách đây 50 ngày cha Tuyên Úy Devlin đã dâng thánh lễ cầu nguyện cho nhà tôi và các con tôi tại nhà thờ trong trại. Hôm nay Cha cũng dâng lễ cầu nguyện nhân dịp 100 ngày. Tôi vô cùng đau đớn, vô cùng chua xót, nhớ lại những người thân yêu nhất của đời tôi. Vợ và sáu con của tôi. Những người đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Thời gian, dù là một liều thuốc nhiệm màu giúp cho tâm hồn người ta bớt thương đau, nhưng không bao giờ tôi quên được nhà tôi, người phụ nữ đảm đang hiền thục, suốt một đời tận tụy bên chồng bên con, không hề được hưởng một ngày nhàn hạ.

Lạy Chúa, xin Chúa xót thương cho những linh hồn đớn đau đã chết đau đớn trong thảm họa chung của cả dân tộc Việt Nam chúng con.

Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả về nơi an nghỉ bình an, hạnh phúc, đời đời nơi nước Chúa.

Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn gió bão khủng khiếp nhất của đời người, để cho con còn đủ minh mẫn, đủ sức khỏe để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con hiện đang còn sống tại Đài Loan.

Con đã chịu đau đớn tang thương quá nhiều. Con cầu nguyện ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những người vượt biển ra đi đều được bình an tới bờ biển an toàn.

Con cầu xin, rồi một ngày kia, con cũng sẽ gặp lại đầy đủ mọi người thân yêu ở nơi nước Chúa trên Thiên Đàng.


http://danlambaovn.blogspot.com/2016/05/i-tim-su-that-ve-con-nguoi-muon-mat-ho_19.html#more

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25/12/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • Is 9,1-3.5-6: (3) Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, ngọn roi hà hiếp họ, Ngài đều bẻ gãy. (4) Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị Ngài đem thiêu, làm mồi cho lửa. • Tt 2,11-14: (14) Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. • TIN MỪNG: Lc 2,1-14
24/12/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • 2 Sm 7,1-5.8b-12.14a.16: (12) Ta sẽ cho dòng dõi ngươi một người do chính ngươi sinh ra đứng lên kế vị ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. (14) Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. • Rm 16,25-27: (25) Tin Mừng mặc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa (26) nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. • TIN MỪNG: Lc 1,26-38
05/12/2020
Dọn đường và đón mừng Chúa đến bằng cách nào? ► Video: https://youtu.be/VK5Jr57xznE ĐỌC LỜI CHÚA • Is 40,1-11: (3) Có tiếng hô: «Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. (4) Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu». • 2 Pr 3,8-14: (11) Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao. • TIN MỪNG: Mc 1,1-8
05/12/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • Is 63,16b-17; 64,1.3b-8: (4) Ngài đón gặp kẻ công chính vì họ sống theo đường lối Ngài chỉ dạy. Và Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con. (5) Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi. • 1Cr 1,3-9: (6) Lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, (7) khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người. • TIN MỪNG: Mc 13,33-37
12/05/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • Cv 6,1-7: (2) Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. (3) Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. (4) Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa. • 1Pr 2,4-9: (9) Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người. • TIN MỪNG: Ga 14,1-12
19/04/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • Cv 2, 42-47: (42) Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. • 1Pr 1, 3-9: (3) Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, (4) để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai.
12/04/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • St 1,1–2,2: (27) Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. • Xh 14,15–15,1a: (30) Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Ítraen khỏi tay quân Aicập. (31) Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Môsê, tôi trung của Người. • Rm 6,3-11: (8) Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người : đó là niềm tin của chúng ta.
05/04/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • Mt 21,1-11: (9) Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đavít ! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! Hoan hô trên các tầng trời. (10) Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau : Ông này là ai vậy ? (11) Dân chúng trả lời : Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy. • Is 50,4-7: (6) Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. • Pl 2,6-11: (8) Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
08/03/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • St 12,1-4a: (1) Đức Chúa phán với ông Ápram: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. (2) Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. (3) Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc. • 2Tm 1,8b-10: (9) Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu. • TIN MỪNG: Mt 17,1-9
01/03/2020
ĐỌC LỜI CHÚA • St 2,7-9.3,1-7: (4) Rắn nói với người đàn bà: Chẳng chết chóc gì đâu! (5) Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác. (6) Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. • Rm 5,12.17-19: (19) Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. • TIN MỪNG: Mt 4,1-11
FOLLOW US
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN MỚI
Thông tin của bạn được giữ kín tuyệt đối và có thể hủy đăng ký bất cứ lúc nào. Nhập địa chỉ email của bạn
THÔNG TIN LIÊN LẠC