Suy tư về sự giáng sinh của Chúa Giêsu

23/12/202410:01 CH(Xem: 1308)
Suy tư về sự giáng sinh của Chúa Giêsu

Suy tư về sự giáng sinh của Chúa Giêsu

 Thiep Giang Sinh

 

1. Đức Giêsu cũng gặp bao nghịch cảnh như chúng ta
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy thân phận con người y hệt như chúng ta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ không có tội lỗi mà thôi. Bài Tin Mừng mô tả cảnh Đức Giêsu sinh ra tại Bê Lem cho thấy Ngài cũng gặp biết bao nghịch cảnh như chúng ta, có thể hơn chúng ta rất nhiều, thậm chí ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và khi vừa mới sinh ra.
Gần tới ngày Ngài chào đời thì cha mẹ Ngài phải lên đường đến một nơi cách nhà mình trên 120 cây số vì lệnh kiểm tra dân số của chính quyền. Tại nơi xa lạ này, gia đình Ngài đã không kiếm được một chỗ trọ để Ngài chào đời một cách xứng với phẩm giá một con người. Vì thế, hai ông bà đã phải chấp nhận cảnh sống bụi đời là tìm một chuồng chiên bò nào đó ở ngoài đồng để sinh con và tạm trú qua ngày. Và Đức Giêsu đã sinh ra trong một chuồng chiên bò. Ôi, thật là nhục nhã! Nghịch cảnh đâu đã hết, nó còn theo Ngài suốt cuộc đời: nào là phải trốn sang Ai Cập, rồi trở về Nadarét, nào là cảnh nghèo khổ, nào là tình trạng bị giới lãnh đạo tôn giáo ghen ghét và bách hại, bị dân chúng và cả môn đệ mình phản bội, bị đánh đòn, bị xỉ vả nhục nhã, bị chết thảm thương, v.v…
Xét về hoàn cảnh, chúng ta may mắn hơn Ngài rất nhiều. Ngài vốn là Thiên Chúa, giầu sang quyền quí vô cùng, thế mà phải chịu như vậy. Chúng ta là ai mà lại mong muốn được ưu đãi hơn Ngài? Suy nghĩ điều ấy sẽ phát sinh một niềm an ủi rất lớn cho chúng ta.

2. Đau khổ và nghèo khó có giá trị của nó
Thân phận con người là một thân phận đau khổ và nghèo khó như một hậu quả tất yếu của tội nguyên tổ. Nếu đau khổ hoàn toàn không có ích lợi gì cho chúng ta, chắc chắn vì yêu thương chúng ta vô hạn, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng vô biên để giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mọi đau khổ. Nhưng nếu Thiên Chúa vẫn để chúng ta phải đau khổ, và chính Ngài cũng sẵn sàng đau khổ cùng với chúng ta, tất nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi rất lớn cho chúng ta. Nếu không như thế, thì phải kết luận rằng: một là Ngài là người tàn ác, không yêu thương gì chúng ta, hai là Ngài không toàn năng, nghĩa là không đủ khả năng để giải phóng chúng ta khỏi đau khổ. Nếu Ngài yêu thương ta vô cùng lại toàn năng, mà lại để chúng ta đau khổ, ắt nhiên đau khổ ấy phải rất cần thiết và rất ích lợi cho chúng ta.
Một minh họa tuy què quặt nhưng giúp ta dễ hiểu điều ấy: Cha mẹ yêu thương con không bao giờ muốn con phải khổ, dù chỉ là khổ một chút xíu. Nhưng nếu cha mẹ bắt con cái mình phải uống một thứ thuốc rất đắng, hay phải chịu roi vọt rất đau đớn, và chính cha mẹ cũng phải vất vả vô cùng mới kiếm được thứ thuốc đắng ấy, hay phải quặn ruột nhìn con khóc thét dưới lằn roi, tất nhiên thuốc đắng hay roi vọt ấy phải là cần thiết hoặc ích lợi cho đứa con. Thật vậy, thà bắt con khổ vì uống thuốc, đau vì roi vọt, còn hơn để con phải bệnh hoạn tật nguyền suốt đời, hay trở nên người hư hỏng hoặc vô giá trị sau này.

3. Đau khổ rất cần thiết và ích lợi để nên thánh, để hạnh phúc
Kinh nghiệm cho ta thấy đau khổ nhiều khi rất cần thiết để đạt được những ích lợi lớn hoặc để tránh những tổn thất nặng nề, chẳng hạn như: «quân trường thấm mồ hôi, chiến trường ít đổ máu», «gieo trong nước mắt thì gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6). Kinh điển Phật giáo cũng nói: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất cả» (Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Theo Phật giáo, phiền não đau khổ là hạt giống Như Lai, sinh ra trí tuệ giải thoát.
Ta thấy: trên đời, những người có bản lãnh đều là những người phải kinh qua rất nhiều đau khổ, đều được đào luyện trong đau khổ. Đau khổ dạy cho chúng ta – thậm chí cả Đức Giêsu – nhiều bài học quí giá: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Ngay cả đối với Đức Giêsu, thì đau khổ cũng rất cần thiết để Ngài trở nên vị lãnh đạo hoàn hảo: «Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ để trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10). Muốn sử dụng ai, Thiên Chúa thường dùng đau khổ để sửa dạy, để thánh hóa, để huấn luyện người ấy nên hoàn hảo: «Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt» (Dt 12,6). Gương của các thánh chứng minh điều ấy.
Như vậy, đau khổ có giá trị của nó, và chịu đựng đau khổ không phải là một chuyện vô ích. Nếu đau khổ và nghèo khó cần thiết và ích lợi cho chúng ta, mà Thiên Chúa lại không bắt chúng ta đau khổ và nghèo khó, thì chắc chắn Ngài chưa phải là người yêu thương chúng ta đích thực: vì «yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi». Hoặc Ngài chỉ yêu chúng ta một cách thuần túy tình cảm và điều ấy sẽ làm chúng ta hư hỏng: «con hư tại mẹ, cháu hư tại bà».

4. Thiên Chúa cùng chịu đau khổ và nghèo khó với con người
Dù đau khổ và nghèo túng là cần thiết cho chúng ta chứ không phải cho Thiên Chúa, nhưng nếu Ngài để chúng ta phải quằn quại trong đau khổ một mình, còn Ngài chẳng biết một chút gì về đau khổ, thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn trong đau khổ, và chúng ta khó có thể tin được rằng Ngài yêu thương chúng ta. Nhưng nếu Ngài đã cùng muốn chịu đau khổ với chúng ta, và còn muốn chịu đau khổ hơn cả chúng ta nữa, thì điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã yêu thương chúng ta đích thực.
Qua cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân xuống thế làm người để cùng chịu đau khổ và nghèo nàn với chúng ta. Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người, đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (xem 1Pr 2,24b). Điều ấy làm chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vô bờ bến, đồng thời cũng nhận ra giá trị của đau khổ và sự nghèo khó.

5. Hãy bắt chước Ngài chia sẻ đau khổ với những người chung quanh ta, nhất là những người nghèo túng, bị áp bức bất công
Nếu tình yêu đích thực đã thúc đẩy Thiên Chúa phải chia sẻ thân phận đau khổ và nghèo nàn của chúng ta, thì ta có thể rút ra một kết luận cho việc thể hiện tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Nếu chúng ta nói mình yêu ai, mà khi người ấy gặp đau khổ, chúng ta không hề cảm thấy phải làm điều gì để giảm bớt đau khổ cho người ấy, hoặc không tìm cách cùng chia sẻ đau khổ với người ấy, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối, tình yêu ấy chỉ là tình yêu ngoài môi miệng. Hễ yêu ai, thì khi thấy người ấy đau khổ, ta không thể khoanh tay đứng nhìn mà không làm gì. Nếu không làm giảm được đau khổ với người ấy, thì cũng có thể làm một việc gì để tỏ ra thông cảm. Chúng ta nghèo, Thiên Chúa cũng đã trở nên nghèo cùng với chúng ta. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng mình yêu thương người nghèo, khi chúng ta vẫn vui vẻ sống trên nhung lụa, và không hề quan tâm làm một điều gì cho người nghèo bớt nghèo. Làm sao ta có thể nói rằng mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta?
Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng ta: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng ta. Qua sự nhập thể ấy, ta có thể nhận ra tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với con người, và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con người. Đức tin giúp ta nhận thức rằng Thiên Chúa yêu thương ta vô cùng và sự khôn ngoan của Ngài là vô biên, vì thế Ngài không bao giờ để chúng ta phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Hãy nhận ra rằng nếu Thiên Chúa để đau khổ xảy đến với ta, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho ta, dù trí tuệ giới hạn của ta không hiểu được ích lợi đó thế nào. Xin Thiên Chúa giúp ta biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh ta.

Nguyễn Chính Kết

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2025(Xem: 168)
Luật nhân quả do Thiên Chúa thiết lập là gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Nếu ta gieo nhân thuộc trần gian, ta sẽ gặt được những gì thuộc trần gian. Nếu ta gieo nhân thuộc vĩnh cửu, ta sẽ gặt được những gì thuộc vĩnh cửu. Khi còn ở trần gian, nếu ta chỉ gieo nhân thuộc trần gian, thì khi bước sang đời sống vĩnh cửu, ta hoàn toàn trắng tay. Trong bài giảng đầu tiên khi bắt đầu cuộc đời công khai, Đức Giêsu đã nói về luật nhân quả trong bài giảng về phúc thật và họa thật.
06/02/2025(Xem: 239)
Trong đời sống Kitô hữu, mỗi lần đọc kinh Tin Kinh là một lần ta tuyên xưng đức tin. Những khi lãnh bí tích rửa tội, thêm sức hay truyền chức, ta tuyên xưng đức tin một cách long trọng trước mặt những nhân chứng của Giáo Hội. Những lúc đó ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ… Nhưng đức tin được tuyên xưng như thế, chưa hẳn là ĐỨC TIN THỰC NGHIỆM. Vậy, đức tin thực nghiệm là gì?
05/02/2025(Xem: 374)
Thiên Chúa thích kêu gọi những người tự thấy mình hèn mọn yếu đuối, để họ trở thành một công cụ tốt, ngoan ngùy dưới tay của Ngài. Và chính khi sử dụng những người như thế, Ngài mới có thể biểu lộ quyền năng và sức mạnh của Ngài. Nếu sử dụng những người tài giỏi, mọi người sẽ nghĩ rằng sự thành công đó là do tài trí và sức mạnh của con người chứ không phải do quyền năng của Ngài. Chính người được Ngài dùng cũng có thể tự hào như vậy.
29/01/2025(Xem: 445)
Những người Pharisêu nổi tiếng giữ luật nhiệm nhặt, thế mà Đức Giêsu chê trách họ chẳng hề tuân giữ lề luật (x. Ga 7:19). Vậy phải giữ luật thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực? Liệu chúng ta có đang giữ luật nhiệm nhặt kiểu «xôi hỏng, bỏng không» như những người Pharisêu không?
22/01/2025(Xem: 840)
Giáo Hội rất ý thức về trách nhiệm phải lên tiếng làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, nên Giáo Hội đã soạn ra cả một học thuyết về xã hội. Học thuyết này, tức «Học thuyết của Giáo Hội về Xã hội», được phổ biến trong toàn Giáo Hội, nhất là đã được dạy trong các đại chủng viện để người được đào tạo trở thành ngôn sứ luôn ý thức về trách nhiệm làm chứng ấy. Là Kitô hữu giáo dân, chúng ta cũng cần ý thức trách nhiệm làm chứng ấy.
FOLLOW US
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN MỚI
Thông tin của bạn được giữ kín tuyệt đối và có thể hủy đăng ký bất cứ lúc nào. Nhập địa chỉ email của bạn
THÔNG TIN LIÊN LẠC