Mẹ Maria, Kho tàng của Thiên Chúa

08/05/20255:12 CH(Xem: 414)
Mẹ Maria, Kho tàng của Thiên Chúa

Mẹ Maria, Kho tàng của Thiên Chúa

aaa

Đỗ Trân Duy

1. Thiên Chúa mặc khải rất ít về Đức Bà Maria. Thánh Kinh cũng nói rất ít về Người. Dầu vậy qua mọi thời, Đức Bà vẫn là vị được ca tụng nhiều hơn tất cả các thánh. Ngay ma quỉ cũng phải khen ngợi Đức Maria [*].
[*] Có lần thánh Đa Minh làm phép trừ quỉ ám cho một bệnh nhân. Thánh nhân bắt ép quỉ phải tiết lộ những gì nó biết về Đức Mẹ. Quỉ đã miễn cưỡng xưng ra những đức hạnh và vinh hiển mà Thiên Chúa dành cho Đức Mẹ. Lời tuyên xưng công khai của quỉ làm mọi người ở hiện trường, kể cả những kẻ cứng lòng, đều cảm động chảy nước mắt.
Tuy nhiên những gì nhân loại biết về Đức Maria chỉ là những vinh hiển bên ngoài. Vinh quang ấy không sánh được với vinh quang ẩn dấu trong nội tâm của Người. Vì Đức Maria là Mẹ ẩn Dấu, Đấng cực kỳ khiêm nhường ẩn tích, nên vinh hiển và lịch sử của Đức Bà là một huyền nhiệm chỉ Thiên Chúa biết mà thôi. Đức Chúa Cha gom tất cả mọi sự tốt lành trong vũ trụ, kể cả Con duy nhất của Người, đặt vào một nhân vật có danh xưng là Maria. Vì vậy các thánh gọi Đức Maria là «Kho Tàng Thiên Chúa» (Thesaurus Domini), nơi chất chứa mọi ơn phúc giúp nhân loại giầu có.
Trí óc con người rất mù mờ về mầu nhiệm cao cả của Đức Maria. Đức Maria sinh con nhưng là Đức Nữ Đồng Trinh. Đức Maria vốn là vật thụ tạo nhưng là Mẹ Thiên Chúa. Đức Maria là người phàm nhưng không nhiễm tội kể cả tội tổ tông truyền. Đức Mẹ không chết nhưng cả hồn và xác lên trời. v.v. Con người không thể nào hiểu được sự siêu việt của Đức Mẹ. Theo thời gian, con người mỗi khi chứng nghiệm được một chút sự huyền nhiệm bèn gói chút hiểu biết ấy trong một tước hiệu. Những tước hiệu này không phải là những lời ca tụng của chữ nghĩa. Chúng là những khám phá bí nhiệm trong vực sâu khôn ngoan và là niềm hy vọng của con người. Chúng là những gì mà con người có thể hiểu và biểu lộ qua sự đo lường của ngôn ngữ. Mỗi tước hiệu của Đức Mẹ cô đọng đầy đủ tín lý và lòng hy vọng của người tín hữu Kitô giáo. Tuy vậy chẳng có tước hiệu nào một mình mang trọn ý nghĩa về ngôi vị của Đức Mẹ. Vì vậy Đức Mẹ có rất nhiều tước hiệu.
Đây là lúc Kitô hữu chúng ta cần nhận diện rõ nền tảng đức tin về Đức Mẹ. Công Gíáo có một niềm tin rất đặc thù về Đức Maria khác hẳn với các hệ phái Thiên Chúa giáo. Trước hết tước hiệu «Mẹ Thiên Chúa» (Theotokos) là một chứng nghiệm kỳ đặc. Tước hiệu này cổ nhất và gây nhiền sóng gió nhất trong lich sử Kitô giáo. Ngay từ thế kỷ thứ V, các giáo phụ tại Constantinople đã phản đối tước hiệu này. Họ cho rằng Thiên Chúa là Đấng tự hữu nên không thể được sinh ra bởi bất cứ ai. Vì vậy tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa là điều phạm thượng. Vấn đề này vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay đối với anh chị em Tin lành. Để giữ vững đức tin, Năm 431, công đồng Êphêsô chính thức thành lập tín điều, «Nếu ai không tin Emmanuel là Thiên Chúa thật, do đó Đức Nữ Đồng Trinh là Mẹ Thiên Chúa, kẻ ấy sẽ bị dứt phép thông công.» Nếu bạn không tin Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chả lẽ bạn không tin Đức Giêsu là Thiên Chúa hay sao? Chính bà Isavê, mẹ của thánh Gioan Tẩy Giả đã chào Đức Maria rằng, «Nhờ đâu tôi có ơn phước được Mẹ Thiên Chúa đến thăm tôi.» Cũng từ ở danh hiệu này mà người ta nhìn ra huyền nhiệm Đức Giêsu có hai bản tính. Ngài vừa là người phàm vừa là Thiên Chúa. Sự quyết liệt của công đồng Êphêsô chứng tỏ rằng, trước những vấn nạn có tầm vóc làm lay chuyển nền tảng đức tin, giáo hội là nơi nương tựa duy nhất của tín đồ Kitô. Biến cố trên còn cho thấy con người không biết ca ngợi Đức Maria. Chỉ giáo hội độc nhất biết ca ngợi Đức Mẹ một cách thích hợp, vì giáo hội có đủ tư cách dâng lên Người những lời do chính Thiên Chúa mặc khải cho biết.
Đức Maria còn gắn liền với giáo hội Công Giáo với tước hiệu «Mẹ Giáo Hội», nghĩa là Mẹ các tín hữu. Niềm tin này rút ra từ mầu nhiệm thần ủy. Khi Đức Giêsu sắp lìa trần, trên thập giá Người trối lại cho Đức Mẹ và thánh Gioan, «Hỡi bà, đây là con bà. Hỡi con đây là mẹ con.» Vào thế kỷ thứ III, Origen đã cảm khái nói, «Thật không ai có thể cảm nhận được một cách thắm thiết sâu đậm lời trối ấy cho bằng một người đã từng dựa đầu vào ngực Đức Giêsu và đón nhận Đức Maria là mẹ mình.» Tuy nhiên thánh Gioan khi ấy chỉ là đại diện cho các vị tông đồ, cho nên Đức Mẹ đã ở với các tông đồ và Người yêu thương nâng đỡ mọi người. Vì vây đây không phải là liên hệ giữa Đức Maria và chỉ một người là thánh Gioan, nhưng là tất cả các môn đệ, có nghĩa là với toàn thể giáo hội từ quá khứ đến tương lai. Lời trối của Đức Giêsu đã mở một cánh cửa đi vào liên hệ siêu nhiên giữa Đức Mẹ và toàn thể tín đồ đi theo Đức Giêsu. Sau này thánh Bonaventura đã cô đọng sự liên hệ ấy trong một câu rất giản dị và minh bạch, «Đức Maria có hai người con. Một người vừa có bản tính Thiên Chúa vừa có bản tính nhân loại. Một người hoàn toàn là nhân loại. Người thứ nhất là con ruột, người thứ hai là con thiêng liêng». Thánh Augustino gọi Đức Mẹ là «Mẹ Các Giáo Hữu». Theo thánh Êphrem, thánh Gioan là người đại diện cho cả nhân loại, vì vậy thánh xưng tụng Đức Maria là «Mẹ Nhân Loại». Sau đó giáo hoàng Leo XIII đã tóm lược ngôi vị «Mẹ», qua thông điêp về chuỗi Mân Côi, Đức Maria là «Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Hội Thánh, Mẹ các tín hữu, và là Mẹ nhân loại.» Thêm vào đó, thần học xác định tất cả mọi Kitô hữu đều là chi thể của Đức Giêsu, vậy nếu Đức Giêsu là con Đức Mẹ, thì tất cả các tín hữu cũng là con thiêng liêng của Đức Mẹ. Năm 1531 ở Guadalupe, Đức Mẹ hiện ra an ủi thánh Juan Diego, «Đừng lo, Mẹ không phải là Mẹ con sao?» Như vậy danh xưng «Mẹ» đã được cả Đức Mẹ lẫn giáo dân công nhận. Câu nói của Đức Mẹ Guadalupe là niềm an ủi cho những ai tin vào Mẹ một cách đơn sơ chân thành. Năm 1964, giáo hoàng Phaolô VI chính thức dâng Đức Mẹ Maria tước hiệu «Mẹ Giáo Hội» (Mother of the Church).
Về ơn ích được làm con Đức Mẹ, thánh Louis De Montfort biện luận rằng, dù ở trần thế hay trên thiên đàng, Đức Mẹ vẫn là Mẹ Đức Giêsu. Nhận định này không có ý so sánh giữa Đức Mẹ và Thiên Chúa vì Thiên Chúa luôn luôn là Thiên Chúa. Kitô hữu không bao giờ thấy Đức Mẹ là Thiên Chúa. Ngay cả Đức Mẹ cũng luôn luôn sống phù hợp với Thánh Ý của Thiên Chúa. Nhưng rõ ràng Đức Mẹ có uy thế với Thiên Chúa, nên lời cầu nguyện của Đức Mẹ sẽ vô cùng hữu hiệu. Theo học thuyết của thánh Louis De Montfort, con người muốn yêu mến và hiểu biết Chúa Giêsu hãy đến với Đức Mẹ Maria. Thánh Louis giải thích, Thiên Chúa đến với nhân loại qua trung gian Đức Mẹ, vậy con người muốn đến với Thiên Chúa cũng phải qua trung gian Đức Mẹ. Giáo hoàng Gioan-Phaolô II thú nhận rằng ngài chịu ảnh hưởng sâu đậm học thuyết Maria của thánh Louis de Monfort. Ngay từ thời còn là giám mục ngài đã lấy khẩu hiệu Totus Tuus (con hoàn toàn thuộc về Mẹ và mọi sự của con là của Mẹ) [*]. Nếu Thiên Chúa đã nhờ Đức Mẹ để thực hiện công trình cứu chuộc nhân loại thì nhân loại cũng phải nhờ Đức Mẹ để thực hiện mục tiêu tối hậu của mình. Vì vậy người Công Giáo tôn kính Đức Mẹ không phải như tôn kính các thánh nhân khác. Lòng tôn kính và trông cậy này là một điều rất đặc biệt của lối sống đạo.
[*] Nguyên văn tiếng Latinh: «Totus tuus ego sum et omnia tua sunt. Accipio Te in mea omnia.»

2.
Đức tính cao quí nhất của Đức Mẹ là đức khiêm nhường và đức phục tòng. Hai đức tính này khiến Đức Mẹ sống một đời che dấu thầm kín và chịu đựng. Chính Đức Mẹ tự nhận, «Này tôi là tôi tớ của Thiên Chúa.» Lời tự xưng này xảy ra trong biến cố thiên thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria biết Bà sẽ thụ thai. Từ đó Đức Mẹ có tước hiệu «Tôi Tớ Thiên Chúa» (nữ tỳ). Tước hiệu này đã tạo ra rất nhiều ngộ nhận qua thời gian. Trong nhiều thế kỷ người ta đã lợi dụng hình ảnh tùng phục của Đức Mẹ như một khuôn mẫu đức hạnh để áp chế phụ nữ và những người nô lệ. Nhưng trên hết, khái niệm «Tôi Tớ của Thiên Chúa» là một chủ đề nổi bật của thần học. Từ lâu người ta bị vướng mắc trong thế đối lập giữa ý chí tự do của con người và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nay người ta có thể luận giải khúc mắc ấy một cách cụ thể qua vị thế của Đức Maria.
Theo truyền thống Kitô giáo, Đức Maria là người đã được Thiên Chúa xếp đặt trong chương trình cứu độ từ thuở khai thiên lập địa. Nghĩa là vị thế của Đức Maria đã được tiền định. Khi tự xưng, «Tôi là tôi tá của Thiên Chúa», chính Đức Maria cũng công nhận mình chỉ là khí cụ trong kế hoạch của Thiên Chúa. Niềm tin này rất hợp với truyền thống của Kitô giáo. Từ thời cựu ước, tiên tri Isaiah đã cụ thể hóa quan niệm ấy qua câu nói, «Có thể đất sét chất vấn về hình tượng của nó? Chúng ta là đất sét, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo.» Quan niệm này là cách khẳng định Thiên Chúa có quyền tuyệt đối trên vạn vật. Con người không thể chất vấn Thiên Chúa, nhưng phải thuận phục theo Thánh Ý. Lời thiên thần Gabriel nói với Đức Maria, «Với Thiên Chúa không việc gì mà không thể làm được» là lời bảo đảm cho uy quyền toàn năng của Thiên Chúa.
Tuy nhiên trong biến cố «truyền tin,» lời chào hỏi của thiên thần Grabriel không phải là cách thông báo một mệnh lệnh đã được định sẵn. «Tin» được «báo» không có tính cách ép buộc. Trái lại chúng là lời dẫn giải từ tốn và khuyến khích. Chính lời đối thoại của thiên thần Grabriel đã khơi động ý chí tự do của Đức Mẹ. Lời nói của Đức Mẹ cũng không thụ động như đất sét, nhưng là những câu hỏi và câu trả lời đầy quả cảm và tin tưởng. Cuộc đối thoại trong biến cố «truyền tin» là mô thức cực tuyệt cho khái niệm tự do, dũng cảm và ân sủng. Con người tự do chấp nhận sự phục tòng. Con người dũng cảm nhận trách nhiệm. Biến cố «truyền tin» là một lối mở đi vào sự hoàn mỹ của ý chí tự do trong thuận phục. Mặc dù trong niềm tin Thiên Chúa giáo, Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn sẵn, và mặc dù Ý của Thiên Chúa là quyền lực tuyệt đối, nhưng quyền lực này chỉ được thực hiện sau khi Đức Maria nói, «Này tôi là tôi tá Chúa. Xin thành sự cho tôi theo lời Ngài.» Balthasar nói, «Tự do giới hạn chỉ có thể tháo gỡ sự hạn chế bằng cách hoà nhập vào sự tự do vô biên.» Tự do của con người là tự do hạn chế. Tự do của Thiên Chúa là tự do vô biên. Ngay khi Thần Khí bao phủ trên Đức Maria, những hạn chế và hư nát phàm thế không còn, cung thánh được thành lập, quyền lực của Thiên Chúa kết tụ thành một thai nhi với tất cả ân sủng và quyền lực. Nói một cách khác, ngay khi con người qui thuận, ân sủng của Thiên Chúa tràn tới. Vì vậy Đức Mẹ được coi là có «đầy ơn phước.» Quả thật là ơn phước cao cả, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao và toàn năng nhưng vẫn coi trọng con người cùng ý chí tự do của họ.
Ý nghĩa của tước hiệu «Tôi Tớ Thiên Chúa» còn dẫn tới một chiều hướng tâm linh khác. Đó là ân sủng của Thiên Chúa tới bởi đức tin của chúng ta và cũng bởi hành xử cộng tác của chúng ta. Đây cũng là điểm đặc thù của Công Giáo. Trong khi giáo phái Luther cho rằng con người được cứu rỗi chỉ nhờ ở đức tin và ân sủng của Thiên Chúa. Nhóm Pelagius (khởi nguồn từ thế kỷ V) trái lại cho rằng con người trở nên hoàn hảo chỉ nhờ ở đức hạnh của mình. Thánh Giacôbê Tông Đồ đã dạy, «Đức tin không có hành động đi kèm là đức tin chết.» Ngài cố ý đề cao giá trị công đức của con người. Về điểm này, có lẽ tư tưởng của Giáo Hội Đông Phương thâm thúy hơn. Họ quan niệm rằng tất cả mọi sự tùy thuộc vào ơn Chúa, nhưng lại hiện thực như tất cả mọi sự tùy thuộc vào hành xử của con người. Lối nhìn này đã nhận ra sự đáp ứng hòa hợp hai chiều giữa Thiên Chúa và con người. Do đó giá trị của ý chí tự do được đặt đúng chỗ trân trọng của nó.

3.
Đến một thời điểm quyết định của lịch sử, Thiên Chúa đón Đức Mẹ cả hồn lẫn xác về thiên đàng. Theo Thomas Merton, ơn phúc này không phải chỉ là thể cách vinh danh «Mẹ Thiên Chúa». Trái lại là cách thế Thiên Chúa biểu lộ tình yêu thánh thiện của Người đối với nhân loại. Người đã tỏ lộ sự trân trọng đặc biệt đối với tạo vật của Người. Ý của Người là vinh danh cái thực thể đã được tạo ra theo hình ảnh của Người. Người tôn trọng thể xác đã được đặt định là đền thờ của sự vinh quang của Người. Đó là lý do Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm mà đến với thế gian. Cũng như Đức Mẹ, thể xác chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa. Vì vậy chúng ta cần ca tụng những đặc ân của Đức Mẹ, nhưng chúng ta đừng quên, bản thể con người của chúng ta cũng được Thiên Chúa vinh danh như vậy.
Vào thời cánh chung, nhân loại sống trong tối tăm, đổ nát, điêu tàn, Thiên Chúa  lại trao cho Đức Mẹ sứ mệnh cứu vớt nhân loại. Lời chúc dữ cho con rắn gian dối và lời tiên tri về Người Nữ của Thiên Chúa trong vườn địa đàng, chính là lời nói về Đức Mẹ và Lucifer vào cuối thời. Đức Mẹ đã sửa soạn việc làm của Người từ lâu qua những lần hiện ra với nhân loại. Nhiều lần Mẹ đã khóc ra máu để thức tỉnh lương tâm nhân loại. Đức Maria yêu thương nhân loại rất sâu đậm bằng tình mẫu tử. Suy ra đáp lại tình yêu của Đức Mẹ là việc chính đáng. Nếu Đức Giêsu tùng phục Đức Mẹ từ khi còn là bao thai cho đến năm 30 tuổi để làm vinh danh Chúa Cha, thì chúng ta càng vinh danh Đức Mẹ bao nhiêu chúng ta càng làm vinh danh Thiên Chúa bấy nhiêu.
Đỗ Trân Duy
 
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21/05/2025(Xem: 71)
Việc tuân giữ lời Chúa, thực hiện ý muốn của Thiên Chúa, chính là điều cần thiết nhất của Kitô giáo. Mà ý muốn của Thiên Chúa là CHÚNG TA YÊU THƯƠNG NHAU. Cần ý thức và nhận định điều chính yếu và cần thiết nhất ấy để phân biệt giữa những điều tốt lành, thì điều nào là chính yếu nhất, điều nào là phụ thuộc, để đừng bao giờ lâm vào tình trạng lấy chính làm phụ, lấy phụ làm chính, kẻo việc sống đạo của ta thành «xôi hỏng, bỏng không».
20/05/2025(Xem: 145)
Đức Giêsu chỉ ở với con người 33 năm, nhưng việc chỉ dẫn dạy bảo chúng ta không phải đã chấm dứt. Ngài sẽ tiếp tục dạy bảo chúng ta bằng Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần ấy không nói với chúng ta bằng lời cụ thể như Đức Giêsu, nhưng bằng cách thích hợp của Ngài. Ngài là tinh thần, ngài nói với chúng ta bằng tinh thần. chúng ta phải dùng tinh thần của mình để nhận ra lời Ngài.
15/05/2025(Xem: 265)
Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, và giống như Ngài. Giống như Ngài, có nghĩa là chúng ta cũng có bản chất thần linh như Ngài, nhưng khác với Ngài ở chỗ bản tính thần linh ấy chỉ ở dạng mầm. Cái mầm ấy có phát triển và lớn lên hay không, tùy thuộc vào ta có cố gắng sống giống bản chất của Ngài là yêu thương hay không. Thánh Gioan viết: «Thiên Chúa là Tình Yêu» (1Ga 4:8). Ta càng yêu thương tha nhân, ta càng giống Thiên Chúa.
12/05/2025(Xem: 297)
Cựu Ước phân biệt tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân như hai tình yêu khác biệt. Nhưng đối với Đức Giêsu hay Tân Ước, Hai tình yêu ấy chỉ là hai mặt khác nhau của một tình yêu duy nhất: Tình yêu đối với Thiên Chúa phải được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Đó chính là ý nghĩa của chữ MỚI trong lời trăng trối của Đức Giêsu: «Thầy ban cho anh em một giới răn MỚI, là anh em hãy yêu thương nhau» (Ga 13:34b).
07/05/2025(Xem: 416)
Làm sao người giáo dân có thể cảm nhận được tình yêu của người mục tử đối với mình, nếu người mục tử không có những hành động cụ thể biểu lộ tình yêu ấy? Đức Giêsu, gương mẫu của người mục tử, luôn luôn biểu lộ tình thương qua những hành động rất cụ thể khiến những người được Ngài chăn dắt dễ dàng cảm nhận được tình yêu thương ấy.
FOLLOW US
ĐĂNG KÝ NHẬN TIN MỚI
Thông tin của bạn được giữ kín tuyệt đối và có thể hủy đăng ký bất cứ lúc nào. Nhập địa chỉ email của bạn
THÔNG TIN LIÊN LẠC